Điều kì lạ là Ngài ở lại đó suốt chín tháng. Dò ra thì thấy ý Ngài muốn ở lâu, chưa muốn về, nên vua Chế Mân đã mời các sư Nam tông đang có mặt tại Chiêm Thành đến nói chuyện, đàm đạo với vua Trần Nhân Tông. Mà các sư Nam Tông có thói quen khi đã cảm mến ai sẽ cúng dường cho vị ấy chiếc y cà sa của mình. Đó là lý do mà sau chín tháng, khi trở về phương Bắc vua Trần Nhân Tông đã đắp y Nguyên thủy là vậy. (Cho đến ngày nay trên Trúc Lân Yên Tử chúng ta cũng thờ Ngài với hình tượng quấn y Nam Tông).
Các sư Nam tông có thể chưa đắc đạo, nhưng Ngài Trần Nhân Tông thì đã đắc đạo, họ nói chuyện vài ba câu là đã lập tức phân định thầy trò, vì người có tâm linh chứng ngộ thì trong vài câu nói đã bộc lộ đức độ cao siêu. Trong suốt chín tháng họ cũng đàm đạo về thiền, nhưng các sư Nam Tông chỉ nói trên lý thuyết, còn Ngài nói trên tâm chứng thực tế, làm các Sư vô cùng cảm phục.
Mà theo nguyên tắc của chính trị, tất cả các cuộc nói chuyện đều được các Sư báo cáo lại cho vua Chế Mân. Và dĩ nhiên, các Sư chỉ nói về đạo lý, về tâm chứng, về sự chứng ngộ của vua Trần Nhân Tông mà họ hiểu được. Nghĩa là trong suốt chín tháng trời, vua Trần Nhân Tông đã gián tiếp thuyết Pháp cho vua Chế Mân qua trung gian của các nhà Sư Nam Tông Phật giáo Nguyên thủy. Có thể thấy, đạo lý xuất phát từ tâm chứng thật sự, nên có sức thuyết phục rất cao.
Từ đó, sự cảm phục của vua Chế Mân với Ngài Trần Nhân Tông cứ ngày một lớn dần. Cho đến khi lòng kính ngưỡng đã lên đến đỉnh điểm, ông muốn có điều gì đó cúng dường cho Ngài. Đây là lý do mà Đại Việt có được Châu Ô và Châu Lý của Chiêm Thành (kéo dài từ Quảng Trị đến Quảng Nam).
Theo Thượng tọa, đây không phải là một hành vi chính trị, mà là sự cúng dường từ lòng kính phục của một vị vua dành cho một nhà sư, là sự cúng dường thanh tịnh thuần túy cho cá nhân vua Trần Nhân Tông, không phải là hành vi cấp đất cho Đại Việt. (Phải hiểu rằng: bao nhiêu năm Chiêm Thành lăm le đánh nước ta, thì không bao giờ có chuyện họ cắt đất cho một nước khác).
Chế Mân vì cảm nhận sự chứng ngộ cao siêu của một Thánh sư sau khi làm tròn trách nhiệm của một vị vua đối với đất nước, đã từ bỏ ngai vàng mà tìm đạo, nên lòng kính phục của ông lên đến đỉnh điểm, và cắt đất cúng dường cho vua Trần Nhân Tông. Nhưng Ngài Trần Nhân Tông với tinh thần vô ngã đã không lấy đó làm thủ phủ Phật giáo của riêng Ngài, mà đã tặng lại, sát nhập hai châu này về cho Đại Việt.
Là người cực kì trí tuệ, vua Trần Nhân Tông cũng biết rằng sau này vua Chế Mân qua đời, cả triều đình và thần dân Chiêm Thành sẽ phản đối quyết định cắt đất cúng dường của Chế Mân, xem đó như hành vi phản quốc. Vì vậy, để bảo vệ uy tín của vua Chế Mân, Ngài Trần Nhân Tông phải tặng điều gì rất quý, rất xứng đáng lại cho Chiêm Thành. Đây chính là lý do tại sao đời nhà Trần, Huyền Trân công chúa được gả cho vua Chiêm Thành là Chế Mân. Có thể nói, Ngài Trần Nhân Tông đã giải được bài toán hóc búa này một cách cực kì xuất sắc, xưa nay hiếm ai làm được.
Đến khi hai bên đã giao hảo, đất nước được hòa bình thêm một thời gian nữa, Chiêm Thành không cần chạy đua vũ trang với Đại Việt, lúc đó Ngài mới trở về, trên mình đắp chiếc y nguyên thủy.
Sau đó, vua Trần Anh Tông cho quân xuống trấn giữ Châu Ô và Châu Lý. Tại những vùng này người Đại Việt bắt đầu ở lẫn với người Chiêm Thành, và giọng nói Đại Việt và Chiêm Thành pha lẫn nhau, kết quả là giọng Quảng Trị như ngày nay. Vào thời đó, nếu người Chiêm Thành rút hết thì từ Quảng Trị đến Quảng Nam hôm nay chỉ nói giọng Hà Nội mà thôi. Đó là cái dấu ấn của lịch sử ta không thay đổi được, và đây là một điều lạ trong cuộc đời vua Trần Nhân Tông.
Sau khi trở về, Ngài lên Yên Tử lập ra phái mới, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà. Và mãi 5 năm sau Huyền Trân công chúa mới được gả cho vua Chế Mân. Nhưng tiếc rằng vua mất không lâu sau đó, mà theo tục lệ Chiêm Thành thì hoàng hậu phải chết thiêu theo vua. Nhưng không để điều đó xảy ra, Đại Việt đã chỉ đạo tráo người lên giàn hỏa thiêu, cứu công chúa về. Qua năm sau nữa (vào tháng 03 năm 1308) thì vua Trần Nhân Tông qua đời tại am Ngọa Vân, núi Yên Tử, Đông Triều, Quảng Ninh.
Rồi theo thời gian, qua ba năm khi mọi chuyện đã yên ấm, công chúa mới ra mặt. Khi đó, bản thân còn rất trẻ, nhưng trên danh nghĩa thì đã chết rồi, cho nên Huyền Trân công chúa như con người không còn tồn tại, không còn danh tính. Cuối cùng Bà đi tu.
Dịp này, Thượng tọa đặt câu hỏi: tại sao chúng ta đánh thắng quân Nguyên Mông hùng mạnh, trong khi giặc Nguyên Mông cày hết thế giới này mà đất nước vua Trần Nhân Tông bé bằng bàn tay? Lý do là gì thì xưa giờ ta cũng lý luận, các nhà sử học, quân sự học cũng đã nghiên cứu rất nhiều, nhưng chỉ có Trương Hán Siêu đưa ra một lý do khác:
“Anh minh hai vị Thánh quân
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh
Giặc tan muôn thủa thanh bình
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.”
Ta thắng giặc không phải vì đất hiểm hay là quân đội giỏi, mà vì đức độ của các vị vua lớn quá. Một vị vua đức độ không thể làm vua của một đất nước bại trận được. Một vị vua mà gần như vị Thánh thì phải được trời đất trên cao bảo vệ. Đó là cái nhìn rất trí tuệ của Trương Hán Siêu.
Thượng tọa còn nhấn mạnh rằng các vị vua nhà Trần có điểm đặc biệt là ngộ đạo, vì vậy các vị ở trên cõi Thánh không đầu thai, vẫn tiếp tục có trách nhiệm với đất nước này. Nơi nào còn con dân Đại Việt, nơi nào còn thờ các vị thì các vị còn yêu thương, bảo vệ, che chở. Sự thờ cúng các vị lan đến đâu thì sự yêu thương, thần lực, sự bảo vệ của các Ngài lan đến đó.
Và trên tinh thần đó, HT. Thích Viên Giác lập Hương Vân thiền thất như là một nơi để ngưỡng vọng thờ kính Ngài Hương Vân Đại Đầu Đà Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông – một Thánh sư của dân tộc ta. Đó là thâm ý sâu xa của Hòa Thượng.
Đồng thời, hễ là người đệ tử Phật là phải tu thiền, vì Đức Phật luôn ngồi thiền suốt cuộc đời Ngài. Cũng vậy, hễ là con dân Đại Việt cũng phải tu thiền, bởi dòng phái Trúc Lâm của Ngài Trần Nhân Tông cũng tu thiền.
Với 90 phút trôi qua không phí uổng, ai nấy đều cảm thấy ấm lòng khi nghe Thượng tọa giảng. Hạnh phúc thay, những bí mật của lịch sử, hôm nay giữa bầu trời Hương Vân Thiền thất đã được Thượng tọa tái hiện, phân tích lại rất sâu sắc, thú vị, khiến mọi người thêm cảm phục tôn kính vua Trần Nhân Tông, thêm cảm xúc đối với giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc mình.
Riêng HT.Thích Viên Giác - Viện chủ Thiền thất Hương Vân, sau khi nghe bài Pháp thoại, Người rất xúc động. Hòa thượng bày tỏ sự ngưỡng mộ sâu sắc trước trí tuệ, đạo đức của TT.Thích Chân Quang.
Trước hội chúng, HT.Thích Viên Giác chia sẻ: mặc dù Người được học hành chính quy về sử học và bản thân cũng có nghiên cứu, nhưng Hòa thượng biết rằng mình chưa bao giờ hiểu hết sử. bởi lịch sử luôn có những điều khuất giấu. Trong lịch sử về cuộc đời Đức Phật hay cuộc đời vua Trần Nhân Tông đều như vậy. Nếu chỉ căn cứ trên sự kiện, các nguồn sử liệu, thì chúng ta không bao giờ biết được sự thật, vì sử liệu để lại thường rất ít và ít nhiều đã bị mất chuẩn.
Có những sử liệu chuẩn, có những sử liệu không chuẩn. Cho nên, người nhận ra được những góc khuất đó để nối kết lại cái dòng lịch sử cho thông suốt, đó phải là người có tầm nhìn sâu rộng, phải thông suốt về tâm lí học, đạo học. Vậy mới hiểu rõ tâm lí của người tu hay sự vận động của xã hội. Đặc biệt phải có tâm linh. Bởi vì những góc khuất nó ẩn rất sâu, phải có đồng cảm về mặt tâm linh thì chúng ta mới có thể nhận ra được sự vận động gọi là logic của nó. Đây cũng là người rất có công đức vì đã làm sáng tỏ những gì ẩn khuất, dựng đứng lại những gì đã ngã xuống.
Như hôm nay, qua bài Pháp thoại này, TT.Thích Chân Quang đã khiến chúng ta bất ngờ, nghiêng người nể phục, khi làm sáng tỏ vấn đề lịch sử thời Trần Nhân Tông bằng câu chuyện rất dung dị, với lối phân tích chặt chẽ, logic, trong đó liên hệ đến những tình tiết phù hợp, thậm chí đặt câu hỏi, gây bất ngờ cho người nghe bằng câu trả lời ít ai nghĩ đến, và dẫn dắt bằng cái nhìn tâm linh, nên có tính thuyết phục cao. Trong câu chuyện, những tình tiết ẩn khuất mà Người phân tích giống như ánh đèn trong đêm tối, làm sáng tỏ biết bao điều trong ta, giúp ta không chỉ hiểu rõ về lịch sử mà còn hiểu thêm về cuộc đời, đức hi sinh cao cả của các Bậc tiền nhân. Từ đó, chúng ta tăng thêm sự hiếu kính với các Ngài.
Tóm lại, đây là bài Pháp thực sự sâu sắc, cách truyền đạt của Thượng tọa đã tạo được hứng thú cho người nghe. Qua bài giảng này, chúng ta càng thêm có niềm tin vững chắc vào đạo lý mình đang tiếp nối từ cha ông, đặc biệt là từ vua Trần Nhân Tông. Chúng ta cũng thêm niềm kính ngưỡng với một bậc minh quân lỗi lạc hiếm có, mà cũng là một thiền sư trí tuệ xuất chúng, để lại ơn nghĩa muôn đời cho hậu thế, cho hôm nay chúng ta nhớ tưởng về Người với niềm thương kính sâu xa vô bờ.
Tuệ Đăng
Ý kiến bạn đọc