Chương I: Phật giáo Quảng Trị

  1. TỔNG QUÁT ĐỊA THẾ

‘‘ Thương anh em cũng muốn về

Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam giang’’

Phải chăng địa thế Tỉnh Quảng Trị chúng ta đã gây nên một ấn tượng kinh hoàng trong người khách xuyên Việt?

Truông nhà Hồ, phá Tam Giang nằm án ngự phía Bắc và phía Nam tỉnh Quảng Trị, nơi mà những bọn thổ phỉ thường hay lợi dụng địa thế hoang vắng để cướp phá kẻ đi đường.

Truông nhà Hồ ngày nay nằm bên kia bờ vĩ tuyến từ Hồ Xá đến Trung Lương, chấm dứt bởi dòng sông Bắc Hải chạy ngang, mà hậu quả của miền đất cát hoang vu không trôi lan sang bờ bên này vĩ tuyến.

Bên này sông, vùng tiền tuyến giữa hai miền sơn cước và hạ hạn là một thung lũng nhỏ đất cát cằn cỏi, nằm giữa những đống cát trắng xóa chạy theo bờ biển, song song với những đồi đất đỏ thẩm của miền thượng nguyên quận Gio Linh.

Đó là quận Trung Lương, một quận lỵ khai sinh bởi hiệp ước Geneve, diện tích quá 8 cây số vuông (vùng phi quân sự) sống trong một chế độ kiểm soát đặc biệt, dân chúng nghèo nàn.

Xuôi về Nam, tiếp theo đó là quận Gio Linh cũng là miền đất núi đồi đất đỏ, phía trên là thượng nguyên rồi qua một bãi cát hoang vu (truông chợ Cầu hay truông Hà Thanh) người ta đi xuống một vùng đồng bằng nhỏ, đất cát nằm giữa hai nhánh sông Cửa Việt và Cửa Tùng, dọc theo đường Quốc lộ qua hết ba dốc (Gia Liêm, Hà Thượng, Hà Trung) đến Hà Thanh quãng dài khoảng năm cây số, hai bên nhà cửa tồi tàn nhà tranh lụp xụp, chúng ta thấy rõ sức sống điển hình của dân chúng quận Gio Linh.

Càng xuôi về Nam, địa thế có phần đặc biệt hơn giữa hai miền Thượng Nguyên của nhánh sông Cam Lộ và Thạch Hãn, núi rừng trùng điệp rộng lớn lên tận biên giới Lào là quận Cam Lộ, Hướng Hóa và Ba Lòng mà dân cư rất thưa thớt, người Kinh lẫn với người Thượng, chuyên sống về rừng núi.

Dưới hạ lưu vùng đồng bằng tương đối rộng và phì nhiêu, dân cư đông đúc là hai quận Triệu Phong và Hải Lăng, hai vựa lúa cũng là nguồn của nhân dân toàn Tỉnh.

Chấm dứt địa thế Quảng Trị là con sông Ô Lâu (mà một  nhánh xuyên về nội địa Tỉnh Thừa Thiên rồi đến phá Tam Giang). Bắt nguồn từ Thác La phía Tây Mỹ Chánh, con sông hiện nay vẫn mang một địa danh Chàm (Châu Ô).

2.     NGUỒN GỐC CỔ THỜI

Nếu tìm đến nguồn gốc, thì nơi đây xưa kia là đất đai của dân Chàm (2 Châu Ma Linh và Bố Chính mà vua Chế Củ Chiên Thành dâng lên trong cuộc chinh phạt năm Kỷ Dậu đời Trần, và Lý Thánh Tôn – 1069).

Nhưng trên sự thật thì mãi đến năm Giáp Thìn (1104 Vua Chiêm Thành thường hay khấy nhiễu, Lý Thường Kiệt phải sang đánh lấy Chiêm Thành lần nữa, vẽ được địa đồ ba châu Địa Lý – Bố Chính – Ma Linh mà chế độ cũ dâng ngày trước và mới cho dân đến ở.

Có lẽ từ năm 1301 trở đi khi vua Trần Anh Tông, sau cuộc chinh phạt Ai Lao trở về, bỏ vào chùa tu, rồi đi chu du khắp thiên hạ, cuộc di dân chính thức mới bắt đầu.

Ngài chiêm thành xem phong cảnh, ước gã công chúa Trần Huyền Trân cho Chế Mân (vua Chiên) cuộc giao hảo Chàm – Việt từ đó thức tỉnh và dân chúng của hai dân tộc mới yên ổn làm ăn.

Chế Mân xin dâng thêm hai châu Ô – Rí  (đổi ra thành Thuận Châu và Hóa Châu) để làm lễ cưới. Đến nay 1307 ta mới đặt cai trị ở hai Hạt này.

Chính trong khoảng thời gian trên hai châu Địa Lý – Bố Chính mới được Việt hóa trong lúc dân Chàm ở hai châu mới thiền cư lần về Nam.

Trong lịch sử Nam tiến, lần đầu tiên dân tộc ta thi hành một chính sách Nam tiến hợp pháp hòa bình, một chính sách thân hữu chỉ có thực hiện một lần duy nhất trong lịch sử bang giao với các dân tộc nhược tiểu.

Một ông vua cởi áo hoàng bào, mặc áo cà sa môn đã được tự do đi chu du đất khách quê người, lại gả con gái cho Quốc vương nước đó, thiết tưởng không một sứ giả hòa bình nào hơn, không một tình hữu nghị nào thắm thiết hơn.

Dầu qua lại triều đình Nhà Trần có dã tâm xâm lược chúng nữa, hay nhà Trần có mưu đồ lấy Huyền Trân công chúa làm con vật hy sinh cho ý chí xâm lược, chúng không thể chối cải thiện chí hòa bình của vị vương giã tu hành đó. Sự kiện trên cũng chứng tỏ tinh thần bình đẳng không phân biệt chủng tộc của Ông vua  của thời đại Lý- Trần, thời đại vàng son của Phật Giáo, mặc dầu về sau dân ta tiêm nhiễm cái tinh thần chật hẹp của Lão giáo chẳng đã phê phán.

“Tiếc thay trong ngọc trắng ngần

Đem vo nước đục lại vần lửa rơm…’’

Trong bước đầu của cuộc Nam tiến dân tộc ta thật đã sống hoà bão của dân tộc Chàm. Có người sẽ đặt câu hỏi:

– Tại sao dân tộc ta tiến đến đâu thì dân tộc Chàm phải lùi đến đó? Phải chăng chúng ta đã áp dụng một chính sách diệt chủng ?

– Không: Câu trả lời thật là dễ hiểu; không phải dân Việt độc ác để không thể sống chung với Chàm, nhưng chính người Chàm lùi dân vì trạng thái sinh hoạt cố hữu của dân tộc họ. Chúng ta thừa hiểu rằng, dân Chàm thời ấy còn chưa vượt qua trạng thái du mục.

Vì thế khi dân chúng Việt Nam đến sinh cơ lập nghiệp nơi nào thì dân chúng Chàm chỉ có việc dời Làng bản đi nơi khác.

Một chính sách đồng hóa chỉ có thể thực hiện khi hai dân tộc cùng ở trong một trạng thái sinh hoạt giống nhau.

Đặc biệt trong lĩnh vực tinh thần của cuộc Nam tiến này dân chúng Quảng Trị đã thu gặt một hiệu quả tinh thần lớn lao ảnh hưởng đến tâm hồn dân chúng đậm đà, tạo nên những sắc thái tình cảm đặc biệt địa phương của người dân Quảng Trị. Đó là tâm trạng con người cành vàng lá ngọc Công chúa Trần Huyền Trân, tâm trạng u uất của một con người phải chịu hy sinh đời sống riêng tư để phụng sự cho quyền lợi dân tộc.

Mối tình vừa thiết tha, vừa ai oán nàng công chúa ấy gửi vào điệu hát ai oán não nùng. Điệu Nam ai, Nam bằng khúc nhạc thiết tha của đoàn quân đưa người sang xứ Chùa Tháp để lại những tình cảm vấn vương, tình yêu quê hương làng mạc, tình yêu tha thiết của người gái trai đất Việt. Nổi khổ chia cắt nổi khắc khoải tan thương, từng ấy tình cảm nhào trộn nên sắc thái tâm hồn của người dân Quảng Trị hiện nay. Cảm thông thân phận bi đát của con người, cảm thông lẻ sống của dân tộc, cảm thông sự hy sinh cần thiết của một cá nhân, dầu cho cá nhân ấy là một nàng công chúa cho sự nghiệp của đoàn thể.

Đó là những yếu tố tinh thần tạo nên những người dân xứ Quảng. Những người dân biết trọng tình khinh lý, ôn hòa, thuần hậu, những đặc tính tiền nhân chúng ta ngày xưa.

3.    ẢNH HƯỞNG VĂN HÓA

Nói đến văn hóa dân tộc thời ấy, chúng ta thấy rằng hai dân tộc Việt – Chàm đều chung một tôn giáo ‘‘Phật giáo”, Đạo Phật Bắc tông lan đến Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, trong lúc đạo Phật Nam tông lan sang Tích Lan – Miến Điện – Ai Lao và Chân Lạp (Cao Miên) và chính nơi đây (hai châu Ô Rí là nơi gặp gỡ).

Lịch sử Việt Nam còn ghi lại rằng trong một cuộc chinh phạt vua Trần đã bắt được một tù binh là một vị Thiền sư đảm một chức vị trọng yếu của nhà vua Chiêm, tuy nhiên vua Trần không coi vị ấy là một địch thủ, trái lại vua Trần còn cân nhắc vị Thiền sư ấy vào một chức vị quan trọng của triều đình.

Tinh thần văn hóa của Phật giáo không tạo sự phân cách, biệt xử và cũng chính vì tinh thần văn hóa ấy mà các cuộc chinh phạt của hai dân tộc bớt đi cái không khí hiếu chiến, hiếu sát vốn bao giờ cũng sẵn có của những kẻ đi chinh phục; Giả thử như hai dân tộc lại khác nhau về tín ngưỡng, chúng ta tưởng tượng cuộc chinh chiến sẽ tàn khốc đến độ nào.

Ảnh hưởng Phật giáo đến với tâm hồn dân chúng rất sâu xa, nhất ở thành phần đại chúng là cái thành phần ít tiêm nhiễm hay chi phối bởi các tư tưởng văn hóa khác. Những từ ngữ nhà Phật lại là những từ ngữ phổ thông, tiếng nói đầu lưỡi của dân chúng.

Những danh từ như: Tội nghiệp, tam bành lục tặc, chính là những từ ngữ Phật giáo lại phổ thông đến mức độ trở thành những tiếng nói dân tộc. Chữ Bụt mà chúng ta thường dùng chính là phiên âm của chữ Boudda (Phật Đà) nói theo Phạn ngữ.

Trên tư tưởng phân tích ảnh hưởng văn hóa của một triết hệ tôn giáo không gì hơn đi sâu vào tâm tư chất phác của quần chúng đối với cuộc sống có thể nhận thức một cách chính xác.

Ý thức về nhân quả, về nghiệp báo, về thiện ác thật là phổ thông ngay những bậc lão thành già cả ít học nhất. Tất cả các gia đình, dầu Nho giáo hay Lão giáo cứ đến ngày sóc vọng là thắp đèn nến hương hoa trên bàn thờ Ông bà để bái vọng vong linh tiên tổ. Ba cây hương cúng dường bàn Tổ phụ phải chăng là hình ảnh của ba cây hương cúng dường Tam Bảo: Phật- Pháp- Tăng.

Bốn lễ trước bàn thờ Tổ Tiên phải chăng là lễ Tứ Thân Phụ Mẫu. Tất cả giải thích nghi lễ chỉ có thể tìm thấy ở căn bản triết lý Tôn giáo của Phật mà thôi.

Do cá nhận xét trên chúng ta có thể kết luận rằng: Trước khi Nho giáo phát triển, Phật giáo là một tôn giáo của dân tộc, của quần chúng nhân dân mà trải qua các cuộc tiến phát của các văn hóa khác (Nho, Lão và các ảnh hưởng văn hóa Âu Tây) vẫn không có một nền văn hóa nào có thể tiêm nhiễm phổ cập sâu xa vào đại chúng như thế.

a.    Văn Hóa Nho Giáo

Nho Giáo phát triển từ đời nào ?

Chắc không ai chối cải rằng Nho Giáo phát triển từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ miền Nam, mà bước đầu tiên là lập căn cứ Ái Tử và về sau (năm…).

Lại thiên độ vào Thuận Hóa (Kim Long, Thừa Thiên) công cụ cuộc Nam tiến của các Vua chúa Nguyễn kéo theo từng lớp Sĩ Phu – Nho Sĩ từ Bắc vào và liên kết với một số ít Sĩ Phu của địa phương để kết thêm vây cánh của mình.

Trên dàn chính trị vai trò của các Sĩ Phu là chủ yếu, tuy nhiên, trãi qua 500 năm truyền bá tinh thần Nho Giáo chỉ thấm nhuần một số ít Thượng lưu trí thức mà thôi, trong mỗi thôn xóm có nhiều lắm là vài ba vị Sĩ Phu giữ các cương vị nhiếp chính. Nhưng trong những vị Sĩ Phu kia, mấy ai được mang danh ‘‘Đạt nhân quân tử’’ họ chỉ biết lợi dụng vốn liếng văn hóa, cái học từ chương khoa cử để tiến địa vị thống trị.

Tệ cường hào phát sinh từ lớp Sĩ Phu vô học và tinh thần Nho Giáo ngày càng mất hẳn tính chất Nho phong Khổng Phu Tử.

  1. Văn Hóa Lão Giáo

Tín đồ lão giáo ở Quảng Trị tương đối rất ít. Đó là một nhóm thầy phù thủy chuyên môn các việc bói toán trừ tà ma, làm phù làm phép, tổ chức những việc mê tín dị đoan dựa theo tinh thần học thuyết của Lão Tử.

Tín đồ Lão Giáo coi việc cúng quãy, trừ tà ma là nghề chuyên môn hơn xem học thuyết Lão trang như một triết lý hay phương châm của sự sống. Những kinh chú, phù thuật của nhóm Phù thủy này một số lấy trong các kinh chú của Phật giáo một số lấy ở phù phép tà thuật của các thầy Mo (thầy Mường) của người Chàm và một số khác lấy trong Đạo Đức kinh của Lão tử.

Đó là sự phá phách tất nhiên của những sự dung hợp kỳ quặc của những nền tín ngưỡng Phật Lão Chiêm Việt.

Lão giáo không có tổ chức thành đoàn thể, mặc dầu gần đây nhóm thầy cúng này đã tổ hợp thành Hội Lão Giáo, lấy chùa Sắc Tứ Thiên Tôn (Đầu Kênh – Triệu Phong) làm trụ sở của Tỉnh Hội và hội viên là những thầy cúng phù thủy.

  1. Tinh Thần Văn Hóa Tam Giáo Đồng Nguyên

Như đã nói ở trên chúng ta thấy rằng trên phương tiện tín ngưỡng, tư tưởng quần chúng đã chịu một sự pha trộn của hai nền văn hóa Chiêm – Việt mà Nho – Phật – Lão đều biến thái thành một tín ngưỡng địa phương bao hàm tinh thần dân tộc. Trời, Phật, Tiên, Thánh, Tinh, Tà, Ma, Quỹ đều được công nhận trong đời sống tín ngưỡng quần chúng.

Người ta có thể tin rằng Thánh, Thần, Ma, Quỹ có thể bắt chết người, đồng thời vừa tin tưởng ở mệnh số (trời định) mà cũng là định nghiệp hay nghiệp lực của đời sống.

Trên hình thức thờ phụng thể hiện cho tinh thần Tam giáo đồng nguyên, chúng ta có thể tìm đến Chùa TAM THANH mà chỉ kể đến sự tích chùa, chúng ta cũng nhận thức rõ rệt tính cách đồng nguyên đó.

Sự tích chùa được ghi lại như sau :

Năm Nhâm Tuất (1572) nhân lúc Trịnh Kiểm mới mất con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng đánh nhau, nhà Mạc đem quân vào Thanh Hóa và sai tướng là Lập Đạo đem một đoàn quân 60 chiến thuyền đi theo đường biển vào đóng ở Hồ Xá và Tạng Uyển (Vĩnh Linh) rồi kéo binh đóng tại Trà Bát, Cát Dinh Làng Trà Liên ngày nay để đánh chiếm Kinh Đô của chúa Nguyễn đóng tại Cổ Thành ngày nay.

Chúa Nguyễn Hoàng đem binh đón đánh khi qua Làng Đầu Kênh thấy có một ngôi Miếu phong cảnh khác thường Ngài cho là nơi Linh địa và như cảm ứng một sự gì, Ngài bèn cho lính xuống bờ sông múc lên một bát nước và khấn rằng: “Nếu chuyến này tôi thắng giặc và sau này nhà Nguyễn được thống nhất giang sơn thì bát nước này sẽ khô ngay”. Khấn xong quả nhiên khô mất và về sau Chúa Nguyễn thắng được trận giặc đó. Vì vậy, mà Chúa sắc lập chùa Tam Thanh và sau này sắc phong là Sắc Tứ THIÊN TÔN tự.

Tại tả ngạn sông Trà Liên còn có một ngôi Miếu tên là TRÃO TRÃO tên của tiếng kêu của một con chim thường đi ăn đêm. Tục truyền rằng: khi lập Bạo kéo binh thuyền theo cửa Việt ngược lên Trà Liên và đóng quân lại tại nơi này thì bị chúa Nguyễn dùng mỹ nhân kế đang đêm đánh úp, lập Đạo thất trận nhảy xuống sông trốn thoát.

Vốn là một tay bơi lặn, quan quân chúa Nguyễn không tài nào tìm được. May nhờ có con chim Trão Trão cứ lúc Lập Bạo ngoi lên đến đâu thì bay theo đến đấy là kêu lên tiếng ‘‘trão trão” quan quân chúa Nguyễn cứ việc theo tiếng chim đến đấy tìm, quả nhiên bắt được Lập Bạo. Chúa Nguyễn cho đó là thần Điều và lập miếu trên bờ sông đó để thờ.

Chỉ chừng nấy thôi chưa đủ nói lên tinh thần Tam giáo đồng nguyên trong tâm tư Sĩ Phu thời đại. Đi sâu vào sự tô trí của chùa Tam Thanh, chúng ta mới thấy rõ vết tích tư tưởng này. Ngay chính điện có hai câu đối:

‘‘Phật thị tâm, mộ cổ thần chung khai tuệ giác

Thánh tức thiên, từ vân pháp vũ đọ sinh linh”

(Phật cũng là tâm, trông sớm chuông mai mỡ trí sáng

Thánh tức là trời, mâu từ mưa Pháp cứu sinh linh).

Phật ấy tự tâm, trời với thánh cũng đồng hóa lẫn nhau. Thật là một quan niệm hỗn tập mà Trời cũng không phải là một vị thượng đế hữu ngã, Trời, Thánh, Phật chỉ là một khái niệm – khái niệm tự Tâm.

Trên phương diện tín ngưỡng, Phật đã không phải là vị thánh linh trừu tượng, Phật giữ tính cách độc tôn của cái Tâm thể hiện sáng suốt, nhưng trên bình thức thờ phụng, Phật chẳng giữ ví trí độc tôn, tuy vẫn ngự ngay trên bục cao chính diện. Bên cạnh còn có Ngọc Hoàng Thượng Đế, Nam Tào Bắc Đẩu, Long Thần Hộ Pháp và bục dưới tượng thờ Lão Tử.

Hai câu đối ở gian tả hữu :

“Huyền hư hữu tượng tiên thiên địa

Đạo pháp vô đa thống tánh tình”

(Thể huyền hư đã có hình dáng trước trời đất.

Đạo pháp không nhiều chỉ quy về nơi tánh và tình).

Câu hỏi này, cũng là sự dung hợp trí thức của hai triết hệ Phật và Lão. Thể Huyền Hư chính là trạng thái Vô Minh, chính là cái mà Lão giáo gọi là: “Hồn Mang, Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sanh”. Đạo đức kinh cũng như các thái hư, Thái cực của Nho giáo.

Nghiên cứu sự tích chùa Tam Thanh với cách tôn trí thờ phụng đã tìm đến tinh thần tôn tri tín ngưỡng của dân tộc đôi khi cũng là một sự nhầm lẫn, vì biết đâu đó là những thủ đoạn tâm lý chiến giống như Trần Hưng Đạo, muốn cổ vũ lòng tin của binh sĩ, lén sai người vào đền thờ viết mấy câu:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm ……”

Ngài với câu chuyện lập đền thờ, biết đâu chỉ là một truyền thuyết bịa đặt chiếm lòng tin của quần chúng mà chẳng thực hiện nội dung tín ngưỡng thực sự của Ngài. Tuy nhiên, sự tích cũng truyền tụng trong nhân gian đánh dấu một thái độ tín ngưỡng khá rõ ràng.

  1. Khai Nguyên Phật Giáo Quảng Trị

– Phật giáo Quảng Trị khai nguyên từ lúc nào?

– Vị tổ khai tiên là ai?

Đó là những vấn đề đặt ra cho ai muốn tìm hiểu Phật giáo Quảng Trị.

Phật giáo Quảng Trị có nguồn gốc duy nhất, các tăng chúng đều xuất nguyên từ một tổ đình: TỔ ĐÌNH SẮC TỨ TỊNH QUANG. Đây là một giáo hệ có một tôn thống riêng. Tìm hiểu giáo hệ này chúng ta có thể biết nguồn gốc của Phật giáo Quảng Trị.

Căn cứ theo một tài liệu lưu truyền của Tổ đình Sắc Tứ, nội san cổ học Quảng Trị trong một số tết Quý Mão đã đăng bài ký của cụ Hoàng giáp Hoàng Hữu Bính (làng Bích Khê) như sau:

Tổ sư người nước China, cha là Nguyễn Quý Công tức Kỳ thiên hầu, mẹ là Nguyễn Thị Thu pháp danh Phật Thọ. Kỳ thiên hầu sanh hạ 3 người con trai. Người con trưởng và người con thứ đều quý hiển, chỉ một mình tổ sư có tiêu phong đạo cốt, vừa lúc 13 tuổi đã xuất gia, quy y với Phật tổ Kiến Nguyệt ở Hoa Sơn (Trung Hoa).

Tổ sư húy là Tánh Tu, hiệu là Chí Khả, sau qua Việt Nam thọ giới ở chùa Thuyền Tôn núi Thiên Thai.

Sư Thuyền Tôn húy là Thực Diệu, hiệu là Liễu Quán (có người ngờ rằng, Tổ Chí Khả có lẽ thọ giới theo với giống tu ở Trung Hoa chứ không phải giống Thuyền Tôn ở Việt Nam).

Lúc tổ sư mới đến Quảng Trị, người làm ngôi am tại phường Phú Xuân (tục gọi là      ) ở huyện Hải Lăng, đệ tử gồm 12 người, thầy Tuyết Phong ở làng Đạo Đầu, thầy Bửu Ngạn làng Thanh Lê là cao đệ.

Giao am ấy cho đệ tử, ngài ra làng Ái Tử, thấy xứ Bàu Voi rừng toàn cây Thị (tục gọi là Tuyệt Tổ Tượng) cảnh trí thanh tịnh bèn làm một gian nhà cỏ để tu.

Tổ sư lại tính về phong thủy, thấy đồi núi Tam Kỳ (tục gọi là Ba Gò) một dãy chạy dài, đoạn cao đoạn thấp, non nước hữu tình, Ngài tin cuộc đất ấy đời đời bất tuyệt, bèn xây cất ngôi am (hướng an tọa khôn hướng cân) triện đà thế tôn Bửu Điện tại xứ ẩn sơn làng Ái Tử, tức là chùa Sắc Tứ ngày nay.

Ngày xưa, vùng đồi núi quanh chùa là nơi rậm rịt thanh vắng, người hái củi vẩn thường sợ cọp, từ khi có ngôi am về sau cọp beo tránh xa, rừng rậm ngày càng được khai quang, xa gần nghe tiếng ngôi am nối rót nhau hành hương quy y ngày càng đông đúc, cầu đạo thường có ứng nghiệm.

Vì vậy cảnh đồi Ái Tử trở nên danh lam thắng cảnh thắng tích Quảng Trị .

Năm Kỷ Sửu niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 5 đời vua Ý-Tôn nhà Lê, chúa Nguyễn là thế tôn Hiếu Võ Hoàng Đế nghe tiếng chùa ngự giá quang đến am và lâm ngự bút viết 5 chữ: “SẮC TỨ TỊNH QUANG TỰ” làm bằng sơn son thiếp vàng để biểu dương ngôi chùa.

Am Tịnh Độ đổi thành Chùa Tịnh Quang từ đấy.

Sau đó được 6 hay 5 năm tổ sư tự hoả táng trên giàn lửa. Ngài mới 24 tuổi, tháp xây gần bên tả chùa hướng khôn, cấn kiêm vị sửu.

Học trò ngài là Tuyết Phong và Bửu Ngạn, 2 vị Hoà thượng kế phiên nhau làm trụ trì, đệ tử càng ngày càng đông, thiện nam tín nữ bổn đạo và thập phương càng ngày càng tấp nập.

Nhân chổ cũ làm lại chùa mới có tiền đường và hậu điện rất trang nghiêm thành một ngôi chùa có danh tiếng nhất trong tỉnh Quảng Trị.

Sau khi 2 ngài Bửu Ngạn và Tuyết Phong viên tịch, tháp 2 Ngài đều xây cạnh chùa (hiện nay 3 tháp đều còn).

Đến đời Lê – Mạt, giữa hai cuộc biến cố Tây Sơn ngôi chàu Sắc Tứ cũng phó thác cho ngọn lữa chiến tranh. Năm Nhâm Tuất hiệu vua Gia Long (1802) Hoà thượng Bửu Châu triệu tập môn đồ cùng với bổn đạo hợp sức lại làm chùa và chỉnh trang Phật tượng.

Năm Tân Mùi, hiệu Gia Long thứ 10 (1811) bà Quốc muội (em vua Gia Long) đến tu tại chùa và mua cúng 3 mẫu ruộng Tam Bảo tại làng Ái Tử và 3 mẫu ruộng tiếp linh hương hoả tại làng Giáo Liêm thuộc quận Triệu Phong. Từ đó nhà chùa mới có công sản thất thiệt tự khá trong chùa  đều được sắm sửa đầy đủ trang hoàng.

Đời vua Minh Mạng, vị đại sư là Lê Nhất Đạt hiệu Chiếu Hoa được lãnh tiền Nhà nước để tu bổ chùa. Đời Thiệu Trị trở về sau, quang cảnh ngôi chùa được y như trước.

Đến năm Quý Mùi, hiệu Tự Đức thứ 36 (1883) các tăng đồ tản túc, chùa chiền hư thốt, ruộng chùa và đồ tự khí cầm bán dần, giữa thời quân Pháp xâm lăng, cảnh chùa ngày một suy đồi quạnh vắng.

Năm Đinh Hợi, Đồng Khánh thứ 2, Ưu Bà Di Lê Thị Thanh Tâm và bà Lê Thị Thanh Dật tìm họp người trong tông môn lại, cử ông Trần Chánh Tĩnh pháp danh Thông Quảng làm trụ trì và bắt đầu thành lập Phổ Phước Tuệ, chuộc ruộng tự điền và tự khí.

Năm đó, Phổ Phước Tuệ cử bà Lê Thị Thanh Tâm làm chánh trưởng phổ và bà Lê Thị Thanh Dật làm Phó trưởng phổ.

Năm Giáp Ngọ, niên hiệu Thành Thái thứ sáu, bổn phổ và thập phương lạc cúng hơn 6.000 quan tiền, bèn khởi công tác đại quy mô, cử một ông Đổng Lý, một Chuyên biện, một Thư ký để làm lại chùa mới, một tháng mới hoàn thành.

Ngày 15-5-Ất Mùi hiệu Thành Thái thứ 7 (1895) làm lễ khánh tán và làm bia ký để ghi lại sự tích.

Bấy giờ, đống võ hoàn toàn đổi mới, quy chế so với ngày trước quang ánh bội phần.

Qua sự tích đã để lại trong bia ký, chúng ta có thể nhận định được tình hình Phật giáo tỉnh nhà qua các biến chuyển lịch sử của dân tộc. Suy thịnh, thăng trầm theo với thế cuộc, theo với nhân tâm và cảnh ngộ.

Trong cuộc phát triển của lịch sử Phật giáo ghi trên, chúng ta ghi nhận một đặc điểm: Phổ Phước Tuệ là hình thức đầu tiên, là tiền thân của Tỉnh hội Phật giáo Quảng Trị và cũng từ năm 1887 trở đi, trong lúc tăng đồ ly tán, giáo thống thất truyền, thì vai trò cư sĩ đành phải cáng đáng công việc xây dựng Giáo Hội mà người cư sĩ đầu tiên lại là một Ưu Bà Di: Bà Lê Thị Thanh Tâm và Lê Thị Thanh Dật.

  1. Phật Giáo Cận Đại

Năm Nhâm Tuất, hiệu Khải Định thứ 7, Phổ Phước Tuệ trùng tu lại Chùa mời thầy Đại Sư Phước Điền, chùa Long An (Xuân Yên, Triệu Phong) thuộc Phổ Liên Trì làm chủ tự. Từ đó hai Phổ Phước Tuệ và Liên Trì hợp lại làm một.

Năm Giáp-Tuất, Bảo Đại thứ 9 (1934) đạo hữu trong bổn hội phát tâm đại trùng tu. Năm 1935, hoà thượng Hải Đức, phát tâm đến chùa, triệu tập tăng chúng trong tỉnh, mở đại giới đàn, hoằng đường chánh pháp và truyền giới cho tăng ni, lễ trai đàn rất trọng thể.

Đến năm Đinh Hợi, chùa lại bị phá tan hoang, danh lam thắng tích trở thành hoang địa (chiến tranh Pháp – Việt).

Năm 1955, Ban trị sự Giáo hội tăng già Trung Phần nhờ sự giúp đỡ của các Thượng toạ trong Ban trị sự Tổng Hội giáo, lấy ngôi chùa Huệ Lâm cho triệt hạ xếp cất tại Huế, đem về dựng lại và mời thầy Thích Ân Cần (chùa Hải Lộc làm trụ trì, thầy Thích Tâm Chánh làm giám tự).

Theo sự tích trên chúng ta thấy rằng, vị tổ khai nguyên Phật Giáo Quảng Trị là ngài Chí Khả.

Trong Việt Nam Phật Giáo sử lược của thượng toạ Thích Mật Thể, tiểu sử của Ngài không được nhắc đến, có thể tại Quảng Trị ngài Chí Khả đã lập nên một giáo hội biệt lập. Mặc dầu các tăng chúng trong giáo hệ này dần dần đồng hoá với giáo phái Thuyền Tôn (Liễu Quán) Việt Nam.

Tiểu sử của Ngài cũng còn nhiều nghi hoặc. Chúng tôi nêu lên đây một vài nghi vấn:

+ Ngài là người China quốc. China phải chăng là Trung Hoa. Phải biết rằng thời bấy giờ, người Việt Nam hay Trung Hoa thường dùng là Trung Hoa hay Thiên Quốc, chứ không dùng phiên âm China (do chữ Chinois hay Chine mà ra) thế thì China là Trung Hoa hay là tên một liễu quốc Ấn Độ.

+ Về thân thế ngài là con của Nguyễn Quý Công và mẹ là Nguyễn Thị Thu. Tôn thống họ Nguyễn, phải chăng là Tôn thống Trung Hoa? Không lẽ Ngài lại chọn cho cha mẹ một tôn thống có cái từ ngữ Việt Nam thuần tuý thế?

+ Ngài tu hành ở núi Hoa Sơn, thọ giới với Phật tổ Kiến Nguyệt? Trong Phật giáo sử Trung Hoa chúng ta có bao giờ nghe đến cái địa danh Hoa Sơn vị Phật tổ Kiến Nguyệt?

+ Theo trong một tài liệu về gia đình Phật giáo (đặc san Phật Đản năm 1961) Ngài là người Trung Hoa thuộc dòng dõi hoàng tộc, trước theo học tại Nam Nhạc Sơn, tổ đình của phái Phật giáo Tào Động mà tổ sư là ngài Nam Nhạc thuyền sư.

Tài liệu này có thể chứng minh bằng những sự kiện lịch sử. Ngài sang Việt Nam vào trong thời Trịnh – Nguyễn phân tranh là cái thời Minh Mạt sơ thân.

Chỉ có thể trong thời kỳ này, lúc này nhà Minh bị nhà Thanh lật đổ, con cháu nhà Minh mới phải lánh nạn sang Việt Nam, và cũng lý do đó mà một vị hoàng thân phải xuất gia tu hành từ lúc 13 tuổi và tìm về niết bàn lúc 24 tuổi cái tuổi thanh xuân đầy ý lực sống và phụng sự.

Như thế, sự tích Ngài Chí Khả chưa được sáng tỏ còn đòi hỏi phải nhiều công trình nghiên cứu sâu rộng và bao quát hơn mới có thể có những nhận định chính xác.

Tuy nhiên, về mặt tinh thần, chúng ta thừa hưởng ở Ngài một kho tàng đạo pháp quý giá, mặc dầu trong biến cố lịch sử không duy trì được tính cách chánh truyền giáo thống.

Phải nhìn nhận rằng, trong sinh hoạt Tăng già hiện tại, chúng ta có thể tìm thấy những dấu vết khác biệt của một giáo hệ mà không phải là Giáo hệ thuyền tôn Việt Nam.

  1. Hệ Thống Truyền Giáo Của Chùa Sắc Tứ Tịnh Quang

Phải nói rằng, từ vị tổ Chí Khả cho đến các vị tổ tương truyền: ngài Tuyết Phong, ngài Bửu Ngạn… Phật giáo đã dần dần lan rộng ra khắp tỉnh. Trong dân chúng bấy giờ mới có một tôn giáo chính thống đúng với danh nghĩa của nó.

Đáng kể, tinh thần Phật giáo lan về các trung tâm sau đây: Trung Kiên, Xuân Yên, Ái Tử, Bích Khê, Hà My, Thanh Lê, Đạo Đầu, Cam Lộ, Gia Độ, Quảng Điền, Cao Hy, Lưỡng Kim, Mai Xá, Lương Điền, Cổ Luỹ, nhờ có quý vị tăng già trụ trì ở tại các chùa giữ giềng mối.

Đến ngày nay, Phật giáo Quảng Trị cũng đóng góp nhiều trong công cuộc chấn hưng Phật giáo nước nhà như quý ngài thượng toạ Thích Đôn Hậu, Thích Thiện Minh, Thích Mãn Giác và các vị hoà thượng trưởng lão: ngài Từ Hiếu, ngài Kim Tiên. Phần nhiều quý ngài hiện nay đều nằm trong phái Liễu Quán, mặc dầu tổ Chí Khả, theo ước đoán của chúng tôi, có thể nằm trong tôn thống riêng biệt của tỉnh Quảng Trị (danh huý của Ngài không theo hệ thống thế truyền của phái Liễu Quán Thiệt Tế Đại Đạo, Tánh Hải Thanh Trừng, Tâm Nguyên Quảng Nhuận…..

Lướt qua các điểm trên, chúng ta nhận thấy rằng Phật giáo Quảng Trị có một tổ chức vững chải trong truyền thống ý thức cổ truyền, liên kết giữa hai giới tăng già và cư sĩ để tạo nên một căn bản khá vững mạnh, làm đà tiếp cho phong trào chấn hưng Phật giáo về sau.

  1. Ảnh Hưởng Văn Hóa Phương Tây

Tiếp xúc với nền văn hoá Tây phương (từ khi Pháp đặt chính sách bảo vệ chính phủ Nam Triều, nếp sống nếp sống văn hoá cổ cựu của dân tộc bị đảo lộn, nhất là Nho giáo.

Văn minh Đông Á trời thu sạch,

Này lúc luân thường đảo ngược ru!

Đó là tiếng kêu gào của con nhà Nho khi thấy tư tưởng tự do pha nhiễm ít nhiều tính chất lãng mạn len vào tâm tư của con người thời đại phá vở nền luân lý chật tinh thần cố chấp và bảo thủ của đa số các sĩ phu Nho giáo bấy giờ.

Ảnh hưởng của nền văn hoá này bắt đầu từ năm 29-30, khi hoạt động của các nhóm này ngày nay (Phong Hoá, Tự Lực Văn Đoàn) đã truyền bá rộng rãi những tư tưởng mới và tiêm nhiễm vào các tầng lớp thanh niên hữu học ở trong tỉnh.

Đối với hạng tân học ở Quảng Trị, ngay trong thế hệ trước, chúng ta còn thấy nề nếp thuần tuý, vì sự dung hoà giữa luân lý cổ truyền và nền tư tưởng khoáng đạt ở Châu Âu đã tạo nên một bản sắc trung hoà, hơn nữa cuộc đấu tranh dân tộc đi sâu vào tư tưởng và văn hoá, với sức tác động của cuộc vận động cách mạng Trung Hoa, Nhật Bản. Tinh thần dân tộc xen lẫn với tinh thần đạo lý và ý thức tự do tạo nên một lớp thức gia chân chính của thời đại và chính tầng lớp này về sau đứng ra tổ chức Hội Phật giáo Việt Nam tại tỉnh nhà.

Đối với thế hệ sau, thế hệ 45-55 mới thật sự có xuống dốc nhất là ở trong tầng lớp thanh niên do ảnh hưởng của ý thức duy vật, khoái lạc do hoàn cảnh chiến tranh gây những đổ vỡ về phương diện tinh thần trong nhân dân.

Quan niệm sống bừa bãi theo chủ thuyết Sartre, qua các phim ảnh kể cả phim ảnh Cowboys làm cho thế hệ thanh niên bắt đầu cuộc sống hưởng lạc sa ngã và tạm bợ.

  1. Công Cuộc Chấn Hưng Phật Giáo Tại Quảng Trị

Trong bối cảnh văn hoá nói trên, công cuộc chấn hưng phật giáo bắt đầu phát triển. Viễn tưởng tai hại của nền văn hoá Tây phương với tinh thần tự do quá trớn thúc đẩy một số nhân sĩ đứng ra tổ chức Hội Phật giáo.

Tinh thần luân lý Nho giáo “Tam cương, ngũ thường” với khuôn khổ chật hẹp, với ý thức cố chấp bảo thủ cũng không làm cho họ thoả mãn.

Chính đó là nguyên nhân làm cho tầng lớp thức giả nói trên tìm đến phật giáo, một tôn giáo có nền tảng lý thuyết tiến bộ, phù hợp với tinh thần khoa học và sống theo những phương pháp tu trì dựa trên căn bản tâm kinh có hiệu quả thực tế mà không có lý thuyết viễn vong.

Chính nhờ ở những đặc tính mềm dẽo, linh động trên mà Hội Phật giáo ở Quảng Trị đã thu hút được đa số thân hào và nhân sĩ ở trong tỉnh.

Những thành phần đứng ra lãnh đạo công cuộc phật giáo là những công chức cao cấp, thâm hiểu giáo lý Phật đà và muốn truyền bá một tinh thần văn hoá mới dung hoà giữa Đông và Tây, giữ đạo lý cổ truyền với tinh thần văn hoá hiện đại.

Năm 1936, khi tổng Tổng Hội A Nan Phật Học hưởng ứng theo chủ trương cải cách phật giáo của ngài Thái Hư Đại Sư đứng ra tổ chức lại hàng ngũ cư sĩ và tăng già, Tỉnh hội Phật giáo Quảng Trị đã được thành lập.

Đầu tiên cư sĩ Tâm Minh (Lê Đình Thám) tại Huế ra tổ chức một buổi nói chuyện về tôn chỉ và mục đích của Hội A Nan Phật học, cùng với giáo lý của đức Phật tại nhà ông Phan Đạm Thanh phường Đệ Nhất thành phố Quảng Trị.

Cuộc nói chuyện đã gây một tiếng vang vô cùng mạnh mẻ ở trong quần chúng, nhất là đối với giới trí thức tại Quảng Trị. Sau đó, một Ban trị sự lâm thời Tỉnh hội A Nan Phật học được thành lập gồm có quý ông: Phan Đạm Thanh, Nguyễn Trung, Trần Đạo Tế (Án sát tỉnh Quảng Trị) ông Nguyễn Hữu Tùng, Lê Khắc Thái (nhân viên toà sứ) cụ Nguyễn Viết Hiệu (lãnh hình tỉnh Quảng Trị) ông Nguyễn Hữu Cầu (chủ sự Ty bưu điện) và bà Lê Thị Viện tức là bà đại tá EDEL với một số hội viên giúp sức trong đó có các ông Nguyễn Văn Triển, Nguyễn Tế, Hồ Ôn, Đỗ Thị Bửu, Lê Văn Trình là thương gia và kỹ nghệ gia của thành phố Quảng Trị.

Hội viên ban đầu gồm 60 người

Sau khi thành lập Ban trị sự (1936) cơ sở văn phòng, chùa chiền chưa có, Ban trị sự phải mướn ngôi chùa Kim Thạch (Thạch Hãn) để làm lễ và đồng thời có hoà thượng Hải Đức chứng minh Đại đạo sư đầu tiên của Tỉnh hội và thượng toạ Thích Mật Nguyện là một vị giảng sư của Tổng trị sự A NAN Phật học hội ra hướng dẫn hội viên trên bước đường tu học.

Cũng trong năm đó giáo hội Phật giáo Đông Hà thành lập do cụ Trương Đình Tường, Trần Quang Bút, Trần Quang Thái đứng ra điều khiển chi hội. Đó là chi hội đầu tiên của Tỉnh hội Quảng Trị.

Sang năm 1937 Tỉnh hội Quảng Trị được chính thức thành lập do cụ Nguyễn Viết Hiệu làm hội trưởng. Trong thời gian kế tiếp năm 38, 39, 40, cơ sở của hội gồm có:

– Thành phố Quảng Trị  : 4 phường

– Chi hội Đông Hà        :

– Chi hội Hải Lăng có   :  Diên Sanh, Văn Quỹ, Câu Nhi, Lương Điền.

– Triệu Phong                :  Cổ Thành.

– Cam Lộ có chi hội Cam Lộ.

– Gio Linh có chi hội Hà Thượng.

– Vĩnh Linh có chi hội Hồ Xá.

Tuy nhiên số hội viên không được đông đảo, chỉ độ trên 300 người công việc điều hành trực tiếp về Tỉnh Hội.

Bây giờ phong trào đã bắt đầu phát triển, dưới sự hướng dẫn của Thượng Toạ Thích Mật Nguyệt triết lý Phật Giáo đã thấm nhuần tâm trí các hội viên và ảnh hưởng sâu xa trong từng lớp dân chúng từ thôn quê cho tới thành thị. Các buổi lễ cầu An cầu Siêu tại thị xã được nhiều người tham gia trong thiện chí đoàn kết cao cả.

Ngày Phật Đản, ngày Thành Đạo, ngày Xuất gia, được tổ chức rất trọng thể, hội viên tại thị xã lúc này đã lên 300 người.

Cuối năm 1936, làng Cổ Thành thuận nhượng cho Tỉnh Hội một mảnh đất 2 sào 3 thước quanh xích (1000m2) để dựng chùa. Thêm vào đó có một số đất hương hoả họ Hồ (Cổ Thành) cúng dường Tỉnh Hội làm chùa.

Đầu năm 1934 sau khi được phép toà công sứ của Tỉnh Hội được xây dựng do công đức của cụ hội trưởng Nguyễn Viết Hiệu và bà đại tá Edel, Ngài Hoà thượng Hải Đức, có bà tri huyện Gio Linh (Nguyễn Văn Tương) cúng ngôi bửu tượng mít thiếp vàng, thời đại chùa Tỉnh Hội Quán.

Qua năm 1942, ông tham sứ toà công chánh Nguyễn Công Tích được cử làm hội trưởng, công việc đạo tiến hành khả quan, hội viên lên tới 1.000 người.

Đang lúc đó thì cách mạng tháng tám 1945 xảy ra Việt Minh lên nắm chính quyền. Hội Việt Nam Phật Học phải đổi ra Phật Giáo cứu quốc. Nhưng bên trong nội dung cuộc hành đạo vẫn tiến hành theo tôn chỉ của đức Phật “tuỳ duyên bất biến” mặc dầu gặp nhiều cam go.

  1. Ảnh Hưởng Tinh Thần Văn Hóa

Cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 quả thật đã làm đảo lộn hẳn nếp sống văn hoá cổ truyền của dân chúng trong tỉnh. Đặc biệt tinh thần học Phật được truyền bá phổ cập với một nhận thức hết sức nông cạn lan ra trong mọi tầng lớp dân chúng, nên được quần chúng nghe theo. Những phần tử này chối bỏ tất cả mọi giá trị siêu việt, cao cả chối bỏ luôn cả lòng tin tưởng ở sự tồn tại thể chất thiêng liêng sau khi thiên địa ngục và ngay cả thuyết linh hồn của thiên chúa, tính triệt để tinh thần tín ngưỡng của các tôn giáo.

Đối với hội Phật giáo nhãn hiệu Phật Giáo cứu quốc để làm chiến trường cho tự do tín ngưỡng của họ nhưng bên trong họ cực lực bài xích, phá hoại nhất là làm lũng đoạn tinh thần của hội viên. Ngay cả sự thờ cúng tổ tiên, kỵ giỗ, lễ bái, cũng bị coi như lạc hậu, dị đoan. Chết là hết chẳng cần gì, thì sự cúng bái trở nên vô ích lạy hỳ hục trước bàn thờ là một việc làm hủ hậu.

Sự thờ cúng tổ tiên còn bị công kích như vậy, huống hồ là công việc tín ngưỡng, cầu kinh niệm Phật đối với họ tin Phật, tin Trời là một việc làm không khác gì tin việc tà ma, bói toán.

Đình chùa bị  trưng thu, trưng tập làm nơi hội họp, tượng Phật, lư hương bị đập phá vứt bỏ.

Chính sự đảo lộn cả nền móng tín ngưỡng cổ truyền đó khiến cho một số nhân sĩ, tri thức, phần bị lăng mạ, phần bí chèn ép trong các mục cúng bái đã tỏ ra bất mãn và ngấm ngầm chống đối. Nhưng càng phản đối họ lại càng bị công kích kịch liệt và dĩ nhiên họ bị lép vế bởi cường lực của lý thuyết Duy vật và thế lực chính trị của nhà cầm quyền. Sự chống đối trên phương diện tinh thần mạnh từ đó.

Nhờ vậy mà công việc chấn hưng Phật Giáo trổi dậy mãnh liệt khi hoà bình đã trở lại trong phạm vi của chính quyền quốc gia (miền Nam trước tháng 5 năm 1975)

  1. Phật Giáo Trong Thời Kỳ Chiến Tranh

Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, tháng 3 năm 1945, Pháp chiếm chùa Hội Quán Tỉnh Hội phá hoại tất cả tự khí và khí mãnh của chùa: Bàn ghế, chuông, mõ, kinh kệ, của chùa bị phá làm củi đốt, tượng gổ mít thiếp vàng cũng biến thành tro. Cho đến tháng 7 năm 1947, tình thế tạm yên, nhân dân bắt đầu hồi cư và chính quyền quốc gia được thành lập.

Tỉnh hội Phật giáo lại bắt đầu hoạt động.

Ban đầu nhờ có ông Phan Văn Phúc, tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị và ông Hà Thúc Luyện, tổng thư ký toà Tỉnh trưởng phát tâm kêu gọi các hội viên mới hồi cư gia nhập lại và giúp phương tiện tìm lại tự khí của chùa.

Hồi ấy Ban trị sự Tỉnh hội chưa thành hình. Ông Nguyễn Tăng Mỹ trưởng ty công chánh, Ông Nguyễn Văn Tương phó tỉnh trưởng, ông Hà Thục Luyện cùng một số nhân sĩ, trí thức chung nhau lo công việc chùa dưới hình thức một ban quản trị chùa Phật Giáo tỉnh hội.

Trong lúc này, có ngài Tăng Cang hiệu Tôn Thắng làng Hà Mi huyện Triệu Phong phát tâm trụ trì chùa Hội Quán, mặc dầu chùa bị trống rỗng hoang tàn, kinh kệ thiếu thốn và hội viên chỉ độ 30 người.

Đến năm 1948, một biến cố quan trọng xảy ra.

Hội Phật Giáo Chu Sơn Thuyền Lữ do một tăng cang môn đệ của ngài Hải Đức đứng ra thành lập. Ngài là con thứ 13 của ông Nguyễn Thân, phụ chính đại thần triều đình Huế trong thời Pháp thuộc (nên người ta gọi là thầy mười ba) hội này thành lập ban trị sự tỉnh hội do ông Tôn Thất Dương Thanh và ông Tạ Thúc Khải dẫn đạo.

Về sau, vì hội Phật Giáo Thuyền Lữ không giữ vững chủ trương thuần tuý tôn giáo của hội và giữa cao trào đấu tranh của dân tộc các vị lãnh đạo chỉ muốn giữ vị trí tôn hoằng dương chánh pháp để lợi ích quần sanh, thoa dịu những đau thương của dân tộc hơn là tham gia các công cuộc chính trị, làm lợi khí cho Thực dân nên đã chuyển hướng theo đường lối của hội Việt Nam Phật Học và cụ Nguyễn Tăng Mỹ được mời giữ chức vụ hội trưởng Tỉnh Hội Phật Học Quảng Trị.

Mặc dầu chống đối của hội Chu Sơn Thuyền Lữ, mặc dầu những áp lực, khủng bố dựa thế thực dân, các vị lãnh đạo vẫn giữ vững khí tiết, sáng suốt nhận định đường lối chân chính,  khôn khéo tổ chức, cho nên hội viên hội Phật Giáo Chu Sơn Thuyền Lữ dần dần tan rã, trong lúc Hội Việt Nam Phật Học càng ngày càng tiến triển mà hội viên đã lên tới 3.000 người.

  1. Phật Giáo Sau Đình Chiến

Hiệp định đình chiến GENEVE ký kết. Chính thể Việt Nam Cộng Hoà được xây dựng. Trong thời kỳ này Phật Giáo đứng trước một sự kiện phát triển chưa từng thấy.

Từ con số ba khuôn hội trong năm 1955 mà đến năm 1963 số khuôn hội lên tới trên 200, chia ra làm 6 chi hội và từ số lượng 30 hội viên đến nay đã lên đến 30.000 người.

Chúng ta hãy đi sâu vào sự phát triển lạ lùng ấy. Có 2 động lực:

I/ Căn bản tín ngưỡng cổ truyền bị xâm phạm: Thật ra sự phát triển phong trào Phật giáo của tỉnh nhà chỉ là sự phản ứng tự động chống lại những áp lực thống trị tinh thần đi ngược lại với tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc. Chúng ta muốn bảo vệ những di sản tinh thần tôn kính thiêng liêng, tín ngưỡng gia tộc mà chế độ duy vật trước đây đã phá.

II/ Niềm tin tưởng thời đại:  phải đặt trên một căn bản khoa học, trong một nhận thức sáng sủa, trong ý thức tự do, con người tự nhận lấy trách nhiệm về mình mà không ỷ lại cầu xin kẻ khác.

Đó chính là 2 động lực tư tưởng đã kích thích sự bộc phát của phong trào Phật Giáo trong Tỉnh.

Sức tác động càng mạnh bao nhiêu thì phản động lực càng mạnh bấy nhiêu, cho nên sự phát triển lớn mạnh hôm nay phải là sự tất yếu của hoàn cảnh, tình hình thực trạng của xã hội đã khai sinh ra nó.

Đó là đặc điểm phát triển của phong trào Phật Giáo Tỉnh nhà, một sự phát triển vượt ra ngoài ý muốn của những nhà lãnh đạo Phật Giáo thời bấy giờ.

Từ năm 1950 đến năm 1963 các vị sau đây được lần lượt giữ chức vụ hội trưởng:

– Cụ Phan Uýnh từ năm 1954 đến 1955.

– Cụ Lê Chí Khiêm từ năm 1955 đến năm 1957.

– Thầy Thích Đức Minh từ năm 1957 đến năm 1961.

– Cụ Nguyễn Văn Triển từ năm 1961đến năm 1963.

Về phía các Tăng già phục vụ cho hội: Trụ trì tại chùa Tỉnh hội ta thấy có quý ngài Thích Ân Cần (Trà Lộc) thầy Thủ Tú (Bích Khê), thầy Thích Lương Bật (Trung Kiên).

Lần lượt chùa hội quán được kiến trúc thêm, văn phòng, giảng đường, trường Trung học Bồ Đề..v..v..

Trong các hoạt động lịch sử đáng kể có cuộc cung nghinh ngọc Xá Lợi vào năm 1955 mà quần chúng hội viên và tín đồ trong tỉnh về dự lễ đông kể hàng vạn người đứng chật cả các đường trong thị xã và lan đến Long Hưng, ngoại ô Quảng Trị.

Từ năm 1964 trở đi, phong trào tuần tự tiến phát, cơ sở của hội lan ra, khắp trong cùng ngõ hẻm, từ nơi thâm sơn cùng cốc như Hướng Hoá, Ba Lòng đến các vùng biển xa xôi như Cát Sơn, Thuận Đầu..v..v…

  1. Vài Nét Đối Chiếu

Để minh thuyết tinh thần kích động của Tỉnh hội Phật Giáo Quảng Trị kể từ sau biến cố Thuyền Lữ, chúng ta thử đặt lại một đoạn trong bài diễn văn đọc trước Đại hội đồng bằng những câu mở đầu rất tha thiết, đạo vị:

“Hôm nay là đại hội thường niên của Việt Nam Phật Học Tỉnh Hội Quảng Trị, trước khi trình bày Phật sự trong năm 1962 này, tôi xin có mấy lời trân trọng cảm ơn quý vị đạo hửu và ban trị sự năm nay cũng như mấy năm trước đã hết lòng giúp sức với chúng tôi trong những lúc phụng hành Phật sự.

Một năm lại có một ngày gần nhau tại giảng đường này không phải là không có nhân duyên tiền định, vì tất cả chúng ta đồng tâm hiệp lực dắt nhau trên đường đạo mục đích là chỉ bày cho một thứ hạnh phúc vĩnh cửu.

Chúng ta đã và đang đi tìm hạnh phúc đó, nhưng càng tìm càng thấy xa dần. Hạnh phúc có khắp tất cả không xa chúng ta, nhưng chúng ta mù quáng, vì tham đắm vì vị kỷ nên chúng ta không tìm thấy hạnh phúc. Nên mỗi con người chúng ta lòng tham, trí mê muội tiêu diệt thì hạnh phúc hiện ra.

Cách ngôn có câu rằng: Người nhặt hạnh phúc chính là người sai khiến được sự mê muội của mình.

Phần đông nhân loại ngộ nhận giá trị hạnh phúc là những hào nhoáng nhất thời, do lòng vị kỷ đem lại. Giàu sang suy tưởng, vật chất đầy đủ gọi là hạnh phúc, ngờ đâu trong đó núp nhiều sự đau khổ, phiền não, bị màn vô hình che đậy nên vọng tưởng là hạnh phúc sung sướng.

Trên đường đời hạnh phúc mà ta nhận thấy đều là giả dối là thất thật. Nên chúng ta cố gắng tìm nó trên đường tu. Tu là cội phúc. Muốn tìm hạnh phúc phải rong ruổi trên đường đạo.

Đạo phật tuỳ cảnh ngộ của con người, giúp cho con người xây tạo hạnh phúc. Đó là lẽ tất nhiên mà không một người nào phủ nhận.

Muốn hạnh phúc thì phải tự phục, cũng như muốn ăn một trái ngọt thì phải gieo giống trái ngọt. Tự nhục là bước đầu tiên của một người tìm hạnh phúc từ bên đường đời bước qua nẽo đạo để tìm chân hạnh phúc, là điều kiện rất quan trọng mà mọi người tu cần phải có, trước khi rão bước trên con đường trí tuệ.

Phải mở rộng lòng thương để tôn trọng sự sống.

Phải trì giới để phát ĐỊNH HUỆ.

Phải bố trí để giúp đỡ kẻ khó trong hoàn cảnh đau thương.

Phải hỷ xả để dũng tiến trên con đường đạo.

Đối với Phật sự cũng như các việc từ thiện, chớ nài công lao và cúng dường bón xén. Xa lìa tham lam dục vọng vị kỷ, không nên để vật chất lôi cuốn vào cuộc đời bê tha, vì chân hạnh phúc không khi nào đến với lòng chật hẹp.

                                                     …… Trích diển văn đọc trong Đại Hội.

Trong hoàn cảnh chiến tranh mà xã hội đầy rẩy những ác ý, những thủ đoạn và âm mưu, tiếng tiền tài danh vọng che lấp tình thương, tiếng hận thù là khủng bố nhiều hơn là tiếng an ủi, mà hội Phật Giáo chúng ta lại nói lên tiếng nói từ bi, hỷ xả, lại kêu gọi tình thương hơn là hờn ghét, thật là một dòng nước Cam Lồ tưới vào cái xã hội còn lao mình trong đấu tranh, chém giết, bạo tàn.

Tính chất đại hội đã hướng trọng tâm vào sự xây dựng bản thân hiện hữu. Kiên định lập trường của Hội để đối phó với tình trạng phức tạp bên ngoài.

Mười năm sau năm 1963, cũng trong bài diển văn khai mạc, cụ Hội trưởng Nguyễn Văn Triết đã trình bày.

Tình hình Phật sự của Tỉnh nhà đã nêu lên bản sắc của một phong trào quần chúng phổ cập và rộng lớn, hội viên lên đến hàng vạn, cơ sở của hội có đến 200 khuông hội rải rác khắp hang cùng ngõ hẹp. Tính chất rộng lớn và có đòi hỏi các cơ quan chỉ đạo mạnh mẽ, một sự điều hành hiệu lực và một chương trình hoạt động tương xứng với tổ chức và thanh danh của Hội.

Chắc quý vị cũng nhận thức rằng, một khi tôn chỉ của Hội được phổ cập, thực lực của Hội càng mạnh mẽ, thì hoạt động của Hội phải đạt đến một tầm kích xa rộng hơn.

Là tập đoàn cư sĩ của hội Phật Giáo Việt Nam, theo tôn chỉ Đại thừa, tinh thần hoạt động bao gồm hai lĩnh vực song hành đối chiếu “Tự giác giác tha” “Tự độ độ tha” và với sự hỗ trợ của mọi tầng lớp hội viên đông đảo, đáng lý ra mọi hoạt động của Hội phải thông suốt đến các đơn vị căn bản, từ các Phật sự có tính cách tự giác tự độ (học hỏi giáo lý thực hành giáo pháp) đến các việc có tính cách lợi tha (công tác từ thiện, xã hội văn hoá, giáo dục..) Nhưng ngặt nổi hoạt động của Tỉnh Trị Sự chưa thoát ra khỏi tình trạng ấu trĩ.

Đoạn diễn văn trên đây đã phản chiếu rõ rệt tình hình hiện tại của Hội, nêu lên thực chất lãnh đạo của một tổ chức rộng lớn, bao quát trên mọi lĩnh vực và hơn nửa đường lối hoạt động không đơn thuần hướng nội như trước mà đã có tính chất hướng ngoại xây dựng lề lối làm việc để phát triển sâu rộng cơ sở vào đại chúng nhân dân, giải quyết những nhu cầu thăng tiến tất nhiên của một phong trào rộng lớn.

Sự đối chiếu trên đây đem lại một nhận thức rõ rệt về sự trưởng thành của tỉnh hội Phật Giáo Quảng Trị và nhìn sâu vào đường lối tinh thần, chúng ta thấy, sau cũng như trước, tinh thần của tổ chức vẫn bất di bất dịch.

Đoạn văn sau đây vẫn là tiếng nói của thời đại chúng ta:

“Hai mươi năm nay hội Phật Học ra đời đã đào tạo biết bao nhiêu Phật tử Minh Tâm Kiến Tánh thấy đường hạnh phúc. Chúng ta mau kín theo dõi, tiến bước theo cho kịp. Cả cuộc đời là giấc mộng, nếu kiếp này chậm bước thì sao cho khỏi hối hận về kiếp sau. Đã chú tâm học đạo thì phải vứt bỏ việc đời, giết quỷ sân si, trừ ma tham đắm, phát tâm cúng dường, vui lòng bố thí, mở tâm thương đời, đời với ta là một, ta với đời là hai….”.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *